Lịch sử Bahá'í_giáo

Lăng mộ và đền thờ của BabHaifa, Israel

Tôn giáo Baha’i bắt đầu ở Ba Tư vào giữa thế kỷ 19, nguồn từ phong trào tôn giáo Babi, kéo dài từ năm 1844-1852. Người sáng lập tôn giáo Babi là Siyyid Ali Muhammad, được gọi là Bab (nghĩa là cái Cửa). Bab đã tuyên bố là Mahdi, người đã hứa với Hồi giáo Shia. Vì lý do này, Bab đã bị giam giữ và những người theo tôn giáo Babi bị bức hại. Bab chết do bị hành quyết bởi một đội bắn vào năm 1850. Thi thể của Bab được tín đồ cất giấu trong nhiều năm sau khi ông qua đời, và cuối cùng, vẫn được bí mật đưa vào Đất Thánh. Trong một lần thăm viếng của ông đến Haifa vào năm 1890, Baha'u'llah chỉ ra cho con trai của ông tại chỗ trên núi Carmel, nơi thi thể của Bab nên được chôn cất.[1]

Mirza Husayn Ali, tức là Baha'u'llah, là một người theo tôn giáo Babi nổi tiếng vì đức hạnh và trí tuệ của mình. Năm 1853, trong thời gian bức hại, Baha'u'llah bị bỏ tù trong một hố ở Tehran cùng với một số tín đồ khác của Bab. Trong nhà tù này, Baha'u'llah nhận được một sự mặc khải thần linh rằng ông là người mà Bab đã báo trước.Baha'u'llah đã bị lưu đày khỏi Ba Tư tới Đế quốc Ottoman, nơi ông đã viết giáo lý của mình; Baha'u'llah cuối cùng đã bị lưu đày bởi chính quyền để Acre (Akko), nơi ông đã viết một số tác phẩm quan trọng nhất của mình. Năm 1892, ông qua đời ở Bahji.[1] Khi Baha'u'llah qua đời, quyền lãnh tôn giáo Baha’i được truyền cho trưởng nam của ông là Abbas Effendi tức là Abdu'l-Baha (1844 - 1921) (nghĩa là tôi tớ của Thượng đế). Trước khi chết, Abdu’l-Baha đã chỉ định cháu ngoại của mình là Shoghi Effendi (1897 - 1957) làm Giáo hộ và thủ lĩnh tinh thần tôn giáo Baha'i. Sau khi Shoghi Effendi qua đời, nền quản trị được chuyển sang Toà Công lý Quốc tế, từ đây tôn giáo Baha'i đã hình thành và phát triển.[1]

Năm 1948, cộng đồng Baha’i quốc tế được chính thức chấp nhận tại Liên Hợp Quốc là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển. Đến tháng 5 năm 1970, tham gia trên cương vị tư vấn tại Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC). Đại diện tôn giáo Baha’i đã được bầu là Chủ tịch các Uỷ ban của Tổ chức phi Chính phủ tại Liên hợp quốc. Ngoài ra, cộng đồng Baha'i quốc tế có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức khác của Liên hợp quốc như: Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ trẻ em của Liên hợp quốc (UNICEF) và đặc biệt là năm 1991, Quỹ phát triển vì Phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) đã tài trợ cho cộng đồng Baha'i quốc tế trong một dự án sử dụng các phương tiện truyền thông để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ…

Số tín đồ

Đền Hoa Sen, một đền thờ Baha'i ở Delhi, Ấn Độ.

Trước những năm 1950, tôn giáo Baha’i có tín đồ ở phần lớn các nước Hồi giáo; trên 90% tín đồ Baha'i là người Iran, nhưng hiện nay chỉ chiếm khoảng 6% tổng số tín đồ trên thế giới. Ấn Độ là quốc gia có số lượng tín đồ Baha'i đông nhất thế giới, khoảng hơn 2 triệu người. Có những nghiên cứu cho rằng, phần lớn các tín đồ Baha'i trong các nước thuộc thế giới thứ ba là nông dân và công nhân ở đô thị, còn ở các nước Tây Âu thì tín đồ Baha'i phần lớn là thuộc tầng lớp trung lưu da trắng.

Năm 1921, tín đồ Baha’i có ở 35 nước trên thế giới. Năm 1990, có 4,9 triệu tín đồ ở 214 quốc gia và vùng lãnh thổ bao gồm đại diện gần 2.000 sắc tộc và bộ lạc trên thế giới. Năm 2000, có hơn 5 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Đến nay (năm 2010), có khoảng 7 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc hơn 2.100 sắc tộc.[2]